Sơ đồ 4-1-4-1 là một sơ đồ khá cân bằng cả ở tuyến giữa lẫn hai bên hành lang cánh. Điểm mạnh ở sơ đồ này là khả năng kiểm soát tốt tuyến giữa, lui về phòng ngự với 2 lớp đồng đảo và tạo nên thế trận công thủ và khả năng phản công rất tốt.
Sơ đồ 4-1-4-1 là một sơ đồ khá cân bằng cả ở tuyến giữa lẫn hai bên hành lang cánh. Điểm mạnh ở sơ đồ này là khả năng kiểm soát tốt tuyến giữa, lui về phòng ngự với 2 lớp đồng đảo và tạo nên thế trận công thủ và khả năng phản công rất tốt.
Đọc sách Cao Thủ Học Tập PDF online miễn phí hoặc tải về dưới dạng PDF theo hướng dẫn. Cuốn sách Cao Thủ Học Tập PDF của tác giả Tác giả Trương Tự Hào được xuất bản bởi nhà xuất bản Nhà xuất bản Dân Trí.
Làm theo hướng dẫn để lấy link tải PDF hoặc link đọc Ebook online free cuốn sách Cao Thủ Học Tập PDF từ nhà xuất bản Nhà xuất bản Dân Trí.
Cao Thủ Học Tập của tác giả Trương Tự Hào là một cuốn sách hướng dẫn hữu ích cho những ai đang tìm kiếm sự tiến bộ trong việc học tập và phát triển bản thân. Chỉ với hai giờ đọc, bạn có thể rút ngắn khoảng thời gian học tập lên đến 20 năm, từ đó tạo ra những thay đổi tích cực trong cuộc sống của mình.
Cuốn sách này là nguồn động lực mạnh mẽ giúp bạn vượt qua những khó khăn và mạnh mẽ hơn trong hành trình theo đuổi ước mơ. Trương Tự Hào chia sẻ những phương pháp thực tiễn để tiếp thu, phân tích, và tổng kết kiến thức một cách hiệu quả. Đặc biệt, tác giả là một sinh viên đại học đầu tiên trong gia đình, với nhiều thành tựu nổi bật, điều này chứng tỏ sự chuyên nghiệp và kinh nghiệm của anh trong lĩnh vực học tập.
Nếu bạn đang trong tình trạng mù mờ về tương lai, đang lo lắng về việc tìm kiếm con đường đúng đắn, hay là phụ huynh đang quan tâm đến sự phát triển của con cái, thì những kiến thức trong cuốn sách này sẽ giúp bạn mở ra hướng đi mới. Tác giả không ngừng nhấn mạnh tầm quan trọng của việc xây dựng nền tảng vững chắc và nâng tầm nhận thức để có thể làm bạn với thời gian và đạt được thành tựu lâu dài.
Trong cuốn sách, Trương Tự Hào chia sẻ những câu chuyện từ chính hành trình học tập của mình, khẳng định rằng không cần thiết phải xuất thân từ gia đình giàu có hay thiên tài để đạt được thành công. Ông nhấn mạnh rằng phương pháp học tập, sự kiên trì và tinh thần cầu tiến là chìa khóa quan trọng để mọi người có thể vượt qua những rào cản trong học hành.
Có một yếu tố quan trọng mà tác giả muốn truyền tải khi đọc cuốn sách này: mỗi người đều có thể học hỏi và phát triển từ kinh nghiệm của người khác. Để có được những thành công bền vững, bạn cần phải biết cách áp dụng kiến thức vào thực tiễn, tạo ra những cú nhảy vọt trong cuộc sống và nghề nghiệp.
Cao Thủ Học Tập không chỉ là một cuốn sách đơn thuần mà hơn thế, nó là một không gian cảm hứng, thúc đẩy lớp trẻ hiện nay phát huy hết tiềm năng của mình. Những lý thuyết và phương pháp trong cuốn sách đều được trình bày một cách dễ hiểu và dễ áp dụng. Nhờ đó, nó ngay lập tức trở thành một tài liệu tham khảo quý giá cho mọi ai muốn tạo ra sự khác biệt trong hành trình học tập và phát triển bản thân.
Với những chia sẻ sâu sắc và thực tế, Cao Thủ Học Tập sẽ là một “*kim chỉ nam*” không thể thiếu giúp bạn sáng suốt hơn trên con đường học tập, mang đến những trải nghiệm phong phú và một cái nhìn tích cực hơn về tương lai.
Cao Thủ Học Tập là tác phẩm của tác giả Trương Tự Hào, hướng dẫn bạn đọc cách rút ngắn con đường học tập trong tương lai. Chỉ với 2 giờ đọc sách, bạn có thể thu thập kiến thức, phương pháp học tập hiệu quả, và tạo nền tảng vững chắc cho sự nghiệp của mình. Đây không chỉ là sách giáo khoa, mà còn là nguồn động lực mạnh mẽ, hướng đến việc chinh phục những ước mơ cao cả trong cuộc sống.
Tác giả, một cựu sinh viên đại học đầu tiên trong gia đình, không chỉ giới thiệu các phương pháp học tập mà còn chia sẻ những kinh nghiệm quý báu từ chính cuộc đời mình. Trương Tự Hào hiện đang là một người có ảnh hưởng toàn cầu với hơn 5 triệu fan, được biết đến với những thành công trong học hành và công việc lẫn lương tâm xã hội. Anh minh chứng rằng bất kể xuất phát điểm như thế nào, thành công đều có thể đạt được thông qua nỗ lực và trí tuệ.
Nếu bạn là một người trẻ đang tìm kiếm đam mê, một phụ huynh lo lắng cho sự phát triển của con cái hoặc đơn giản là một cá nhân muốn thay đổi cuộc sống của mình, thì cuốn sách này là dành cho bạn. Tác giả nhấn mạnh rằng sự tự nhận thức và lòng kiên trì là những yếu tố thiết yếu để vượt qua mọi thách thức. Những phương pháp học tập mà anh triển khai bao gồm ba giai đoạn: phá bỏđòn bẩy, và nâng tầm.
Trương Tự Hào khẳng định rằng việc đầu tiên là xây dựng một nền tảng vững chắc với sự hiểu biết cơ bản về các kiến thức học thuật. Từ đó, người học có thể sử dụng đòn bẩy trong đời sống mỗi ngày để đạt được trình độ “kiệt xuất”. Cuối cùng, việc xây dựng lại tư duy, nâng cao nhận thức, và thay đổi cách nhìn sẽ giúp mỗi người phát triển bền vững hơn trong tương lai.
Cuốn sách không chỉ mang tính lý thuyết mà còn cung cấp những trải nghiệm thực tế và những câu chuyện gần gũi với độc giả. Tác giả chia sẻ những thất bại và bài học rút ra để làm gương cho lớp trẻ, truyền tải tinh thần dũng cảm và sự quyết tâm không ngừng trong việc theo đuổi mục tiêu.
Kết thúc cuốn sách, Trương Tự Hào nhấn mạnh rằng hào quang của thành công không thể sao chép nhưng kinh nghiệm và sự sáng tạo có thể học hỏi và áp dụng vào thực tiễn. Đó là động lực thúc đẩy người trẻ tự tin hơn trong việc hiện thực hóa ước mơ của mình. Cao Thủ Học Tập thực sự là một hành trình ý nghĩa, khuyến khích mỗi cá nhân tìm kiếm và phát huy tiềm năng của bản thân.
Cuốn sách Cao Thủ Học Tập của tác giả Trương Tự Hào mở ra cho bạn một hành trình tự khám phá và phát triển bản thân mạnh mẽ. Qua những trang viết sắc sảo, bạn sẽ nhận ra rằng để đạt được các đỉnh cao trong học tập và sự nghiệp, điều quan trọng là xây dựng nền tảng vững chắc và có chiến lược phát triển rõ ràng.
Một trong những bài học quý giá nhất từ cuốn sách này là đặt ra mục tiêu rõ ràng và có các phương pháp hiệu quả để thực hiện chúng. Tác giả khuyên bạn cần phải bắt đầu từ những điều cơ bản, hướng tới việc trở thành một người ưu tú trong lĩnh vực mà bạn theo đuổi. Điều này không chỉ bao gồm kiến thức chuyên môn, mà còn cả kỹ năng sống và khả năng tự học hỏi.
Bên cạnh đó, Tự Hào nhấn mạnh rằng không có thành công nào đến một cách dễ dàng—nỗ lực không ngừng nghỉ là yếu tố then chốt. Bạn nên nhận thức được rằng mỗi bước đi, mỗi trải nghiệm, dù tốt hay xấu, đều góp phần xây dựng con người bạn. Hành trình trưởng thành và học tập của bạn không chỉ là việc truyền thụ kiến thức, mà còn là tạo dựng các kết nối xã hội và học hỏi từ những người xung quanh.
Cuốn sách cũng khuyến khích bạn cần có một tư duy phản biện và sáng tạo. Nguyên tắc “cần cù bù thông minh” không chỉ đơn thuần về việc bỏ ra nhiều thời gian học tập, mà còn là cách bạn vận dụng kiến thức vào thực tế, chuyển hóa chúng thành những ứng dụng thiết thực trong cuộc sống. Chỉ có như vậy, bạn mới có thể vượt qua những thách thức lớn lao trong tương lai.
Cuối cùng, Cao Thủ Học Tập không chỉ thể hiện một phương pháp học hỏi, mà còn mang đến cho bạn những cảm hứng tích cực để dám mơ ước và hành động. Cuốn sách này chính là cuốn kim chỉ nam cho thế hệ trẻ hiện đại, giúp họ tự tin hơn trên con đường chinh phục ước mơ của chính mình.
Cuốn sách “Cao Thủ Học Tập” của tác giả Trương Tự Hào mang đến cho bạn những cái nhìn sâu sắc và phương pháp học tập hiệu quả, nhằm giúp bạn rút ngắn thời gian học hỏi và phát triển bản thân. Đặc biệt, tác giả đã đúc kết kinh nghiệm từ chính cuộc sống của mình để truyền tải đến độc giả những bài học quý giá.
Đầu tiên, mọi thành công đều bắt đầu từ một nền tảng vững chắc. Tác giả nhấn mạnh rằng, việc đạt được trình độ ưu tú là rất quan trọng trước khi bạn có thể đạt được những điều cao siêu hơn. Như một ví dụ, bạn cần phải xây dựng cho mình một hệ thống tri thức cơ bản trước khi có thể mơ ước đạt đến trình độ kiệt xuất.
Tiếp đến, cuốn sách khuyến khích việc phân tích và tổng hợp thông tin. Tác giả chỉ ra cách mà bạn có thể áp dụng những kỹ thuật học tập để phân tích và sử dụng những gì đã học một cách hiệu quả. Những kỹ thuật này có thể được áp dụng không chỉ trong học tập, mà còn trong công việc và cuộc sống hàng ngày.
Cuối cùng, Tự Hào cũng khẳng định rằng, tư duy là chìa khóa để vươn xa hơn. Việc xây dựng và phát triển tư duy của bạn sẽ giúp bạn nhận thức được những cản trở mà bạn gặp phải và tìm cách vượt qua chúng. Điều này vô cùng quan trọng trong môi trường cạnh tranh khốc liệt ngày nay.
Bằng cách thực hành các nguyên tắc cơ bản mà tác giả đã chỉ ra, bạn sẽ có thể nâng tầm nhận thức của bản thân và vượt qua giới hạn mà trước đây bạn vẫn cảm thấy bế tắc. Tác giả không chỉ là một người truyền cảm hứng, mà còn là một ví dụ điển hình cho việc cần cù và kiên trì trong việc phát triển bản thân.
Cuốn sách này không chỉ dành cho những ai đang trong độ tuổi học sinh, mà còn là tài liệu quý giá cho các bậc phụ huynh và mọi người đang tìm kiếm cơ hội tự phát triển. Hãy dành hai tiếng đồng hồ để đọc nó, bạn sẽ tìm thấy một nguồn động lực to lớn cho bản thân.
© Dam Vinh Hung Production LL | PW
℗ Dam Vinh Hung Production LL | PW
Cao Đài giáo là một đạo tương đối mới mẻ, chính thức chào đời năm 1926. Tuy nhiên, ta không nên đánh giá một đạo giáo vì đó là một đạo giáo mới hay cũ, mà vì nội dung nó hay, hay dở mà thôi.
Cao Đài giáo tin rằng mình sẽ trường tồn với thời gian, trong vòng «thất ức niên dư», mỗi ức là mười vạn, mỗi vạn là mười ngàn năm.
Cao Đài dùng cơ bút để lập đạo.
Đại đạo là gì? Thưa là tinh hoa các đạo giáo xưa nay.
Tam kỳ là gì? Đó là tinh hoa các đạo giáo thiên hạ, của ba thời kỳ, từ thượng cổ, trung cổ và cận kim.
Phổ độ là gì? Thưa là muốn cứu rỗi mọi người, chẳng trừ ai.
Đại đạo Tam kỳ Phổ độ nòng cốt là theo tinh hoa Tam giáo (Nho, Thích, Lão) nhưng cũng tham khảo Thiên Chúa giáo, Bà La Môn, Hồi giáo, v.v...
Hiểu Đại đạo Tam kỳ Phổ độ như trên có lẽ hay hơn. Khi còn ở Việt Nam, trong những năm cộng tác với Cao Đài [Cơ quan Phổ thông Giáo lý Cao Đài giáo Việt Nam], đường Cống Quỳnh, Sài Gòn, tôi đã chủ trương như vậy. Đạo hữu Thiên Vương Tinh cũng đồng ý với tôi, và trong Cao Đài giáo lý, rằm tháng 2, năm Kỷ Mùi đã viết một bài «Tìm hiểu Đại đạo Tam kỳ Phổ độ» rất sâu sắc, nơi các trang 40-48.
Sang Hoa Kỳ, đọc quyển Lịch sử đạo Cao Đài của Lê Anh Dũng, tôi thấy Anh luận về mấy chữ Đại đạo Tam kỳ Phổ độ rất là cao siêu.
Anh nhận định: «Kỳ Ba diễn ra từ sau nửa thế kỷ XIX.»
Anh suy luận tiếp: «Trong hai thời kỳ trước, các nền tư tưởng triết giáo tiêu biểu nói trên, còn bị ngăn cách. Sang kỳ Ba, thế giới ngày một gần lại, con người đã chinh phục được khoảng cách thiên nhiên. Phương tiện ấn loát và thông tin ngày càng phát triển cùng với phương tiện giao thông đã góp phần đưa các nền tư tưởng gần lại, giao lưu với nhau.
«Kỳ Ba như vậy có một đặc sắc riêng là xu thế dung hòa và tổng hợp tư tưởng Đông Tây kim cổ.
«Năm 1863, tại Iran, Baha Ulla sáng lập đạo Bahai, chủ trương các tôn giáo đều có chỗ đại đồng.
«Năm 1875, tại Hoa Kỳ, bà Blavatsky (người Nga) lập trụ sở Thông thiên học ngay tại New York. Năm 1879, trụ sở này rời về Ấn Độ, đặt tại Madras. Thông thiên học đề cao chân lý đại đồng, hướng con người thoát ra vỏ ốc tôn giáo (religions) để tiến lên Đại đạo (sur-religion) bằng cách nêu tiêu ngữ: «Không tôn giáo nào vượt qua chân lý.»
«Các triết gia, học giả đã làm nổi lên phong trào đối chiếu và tổng hợp tư tưởng triết giáo, nhằm nỗ lực định hướng con người gần lại nhau trong tư tưởng đại đồng, vạn giáo nhất lý.
«Cuối thế kỷ XIX đã có hai sự kiện đáng kể:
«– Năm 1893, Đại hội tôn giáo thế giới được triệu tập tại Chicago (Hoa Kỳ).
«– Năm 1900, Hội nghị quốc tế về lịch sử tôn giáo (lần I) được triệu tập tại Paris (Pháp).
«Hai sự kiện trên đã mở đường cho những hoạt động nhằm cổ vũ cho một lý tưởng hòa đồng tôn giáo và dung hợp tư tưởng vào các thập niên kế tiếp. Chẳng hạn:
«– Năm 1939, Radhakrishnan dạy Tôn giáo đối chiếu tại Đại học Oxford (Anh).
«– Năm 1959, Viện Văn hóa Pháp và Đại học Paris mở khoa Tôn giáo đối chiếu.
«– Năm 1960, Hội nghị quốc tế về lịch sử tôn giáo (lần X) được triệu tập tại Marburg (Đức).
«– Năm 1961, Đại học Chicago và Đại học Yale (Hoa Kỳ) xuất bản các tậïp san định kỳ làm diễn đàn cho phong trào đối chiếu và tổng hợp triết giáo.
«– Năm 1963, Đại học Sorbonne (Pháp) mở khoa Triết lý đối chiếu...
«(…) Theo A.J. Bahm, “tiềm tàng trong bản chất của tôn giáo là mỗi tôn giáo đều tự nhiên tìm cách trở nên đại đồng và (...) các tôn giáo trên thế giới sẽ có xu thế hướng về một nền tôn giáo toàn cầu”.
«(…) Sự chuyển biến nhận thức về tôn giáo trong hai ý hướng chủ yếu (a) toàn cầu và (b) hiện đại, tựu trung chính là sự nhận thức về nhu cầu mới của nhân loại đang khao khát một nền đạo đại đồng vượt mọi biên cương, chủng tộc. Suốt thế kỷ XX, ở nhiều nước đã có nhiều hoạt động phục vụ cho lý tưởng này. Tất cả nhìn riêng, là một khâu, một mắt xích trong toàn chuỗi xích của phong trào vận động và tìm kiếm cho nhân loại một Đại đạo.
«(…) Ở trên đã nói về hai chữ Tam kỳ. Hai chữ Đại đạo bao hàm cái nghĩa vượt lên tôn giáo cố hữu của nhân loại. Nói cách khác, Đại đạo là siêu tôn giáo (sur-religion), hai chữ Phổ độ ngụ ý rằng đối tượng cứu rỗi là toàn thể chúng sanh (universalism).»
Đọc kỹ những lời lẽ trên, ta thấy hiện ra những tư tưởng sau đây:
1. Con người đang khao khát đi tìm một chân lý đại đồng. Ngay đạo Công giáo nay cũng chủ xướng hòa đồng tôn giáo.
2. Cao Đài chủ trương đại đồng, và vạn giáo nhất lý.
3. Cao Đài cho rằng các tôn giáo nay đã mất phần tinh hoa, phần chân truyền. Và Thượng đế khai đạo kỳ này, là muốn dạy lại cho nhân loại phần tinh hoa, mật truyền ấy.
4. Cho nên Cao Đài chia đạo mình thành hai phần: Phần vô vi, tức là phần chân truyền. Phần phò loan hay phổ độ, là phần tôn giáo thông thường.
5. Đạo hữu Thiên Vương Tinh, trong bài Tìm hiểu Tam kỳ Phổ độ, đã viết rõ: Đại đạo Tam kỳ Phổ độ và Tôn giáo Cao Đài.
6. Thượng đế dạy lại con người phần vô vi; những giáo hữu [tín đồ] tuệ giác, tuệ căn lại gắng nghiên cứu phần vô vi mà nay thế giới gọi là đạo huyền đồng (mysticisme) hay thiên nhân hợp nhất trong các đạo giáo, thì trước sau gì chân lý cũng hiện ra cho mỗi người.
Tôi không là Cao Đài, nhưng tôi kính phục đường hướng trên, và cũng muốn đóng góp vào đó một phần nào.
«Theo truyền tụng, trong Ấu học quỳnh lâm, có câu «Đầu thượng viết Cao Đài.» Léon Wieger, trong sách Chinois parlé (Sienhsien, 1936, p. 133), dịch Đầu thượng là Au commencement (thoạt kỳ thủy, khởi đầu). Nhiều người lại hiểu Đầu thượng là Trên đầu.
«Hiểu theo Wieger thì «Thoạt kỳ thủy là Cao Đài», phù hợp với quan niệm Cao Đài hay Thượng đế là nguyên nhân đầu tiên của vũ trụ vạn vật, là Alpha như Tân ước đã chép.
«Còn hiểu «trên đầu là Cao Đài» thì phù hợp với huyền học đạo Lão. Theo đạo Lão, trên đầu có nê hoàn cung, là nơi Thượng đế nội tại. Đức Đông Phương Lão tổ dạy:
Phải chăng tìm đến Cao Đài thượng,
Thánh giáo sưu tập 1968-1969 nơi trang 5, cho biết chỗ cất giấu chìa khoá thiêng, để mở cửa nhiệm huyền: «Bao nhiêu huyền bí, thiêng liêng, nhiệm mầu, siêu việt, nhưng chìa khoá mở, Đức Chí tôn đã đặt trong chỗ cao nhất của mỗi người, hãy tìm lấy, và mở lấy, hỡi chư hiền.»
Chỗ cao nhất trong con người là ở đâu?
Thưa là nê hoàn cung, là não thất ba, nơi tâm điểm đầu não con người. Cửa Trời ở đấy, Thiên nhãn ở đấy, Thượng đế ở đấy, Thiên thai cũng ở đấy.
Đại thừa chân giáo nơi trang 61, viết: «Chữ Cao Đài là gì? Là côn lôn đỉnh, hay là nê hoàn cung, thuộc về Thượng giới... Thiên môn là cái gì? Là cái khiếu nê hoàn cung đó.»
Cao Đài giáo lý số 89, viết [trích thánh giáo]:
«Tỉnh giấc chiêm bao, ớ trẻ bày,
Đừng còn non núi, hoặc cung mây.
Như vậy, Cao Đài hay Thượng đế xưa nay không bao giờ rời xa con người, mà vẫn luôn ở sẵn trong lòng con người, và là bản thể con người. Cao Đài là bản thể con người, ngự trị trong giữa đầu não con người.
Xưa Môisen hỏi tên Thượng đế. Ngài trả lời: «Ta là bản thể.» (Deus ad Moysen: Ego sum quy sum. Ex 3, 14.)
Câu này, cho đến nay, ít ai hiểu nổi. Cũng y như Thượng đế mới đầu xưng là AĂÂ.
Đức Cao Đài còn xưng mình là: Cao Đài Tiên ông Đại bồ tát Ma ha tát.
Tiên ông biểu thị cho Tiên giáo.
Đại bồ tát Ma ha tát biểu thị cho Phật giáo.
«...Tên là cái giả triền miên muôn đời,
Đến tên Ngọc đế mấy hồi đổi thay,
Khi xưng Thiên Chúa, khi khai Di Đà,
Bao lần Khổng Mạnh cũng Già này đây.»
Như vậy, chung quy đều là giả danh, tá danh. Đúng là: «Đạo khả đạo, phi thường Đạo; Danh khả danh, phi thường danh.» 道 可 道 非 常 道; 名 可 名 非 常 名 [Đạo đức kinh, Chương I.]
Thượng đế dạy Đức Ngô Minh Chiêu lấy Thiên nhãn làm biểu tượng cho đạo Cao Đài, tại Phú Quốc vào năm 1921.
Trong một đàn cơ ngày 31 tháng Giêng năm Bính Dần (25-02-1926), Đức Cao Đài dạy tại sao lại dùng Thiên nhãn mà thờ như sau:
«...Chưa phải hồi các con biết đặng tại sao vẽ thánh tượng Con Mắt mà thờ Thầy, song Thầy nói sơ lược cho hiểu chút đỉnh:
«Thần là khiếm khuyết của cơ mầu nhiệm từ ngày đạo bị bế. Lập Tam kỳ Phổ độ này, duy Thầy cho thần hiệp tinh, khí đặng đủ tam bảo là cơ mầu nhiệm siêu phàm, nhập thánh.
«Từ ngày bế đạo, thì luật lệ hãy còn nguyên, luyện pháp chẳng đổi, song Thiên đình mỗi phen đánh tản thần không cho hiệp cùng tinh, khí. Thầy đến để hoàn nguyên chơn thần cho các con đắc đạo.
«Con hiểu: Thần cư tại nhãn. Bố trí cho chư đạo hữu hiểu rõ nguồn cội Tiên Phật yếu nhiệm là tại đó. Thầy khuyên các con mỗi phen nói đạo, hằng nhớ danh Thầy.»
Trong mấy câu ngắn gọn kể trên, bao gồm nhiều ý nghĩa quan trọng.
1. Thượng đế xưng mình là Ánh Sáng, là Thần ở ngay trong đôi mắt ta.
2. Ngài cho rằng xưa nay Thần con người đã bị Thiên đình đánh lạc.
3. Nay Ngài đến để trả lại Thần cho con người.
Như vậy Thượng đế tuyên xưng Ngài là Ánh Sáng là Thần, là Bản thể con người, ở ngay trong mắt ta.
Ngài nói con người đã bị tản thần, thì trong Genesis cũng viết: «Thần của ta sẽ không còn lưu tồn mãi nơi loài người, bởi chúng là xác thịt. Ngày đời của chúng là 120 năm.» [Gen 6, 3.]
Công giáo cũng vẫn cho rằng: Con người chỉ có Xác và Hồn, không có Thần.
Tiên tri Joel hứa Chúa trả lại Thần cho con người. «Sẽ xảy ra là sau đó ta sẽ đổ Thần ta trên mọi xác phàm.» [Jl, 3,1.]
Cao Đài dạy ta đừng quên là ta có Thần Chúa trong ta. Những câu này, thiệt đáng ghi nhớ.
Thượng đế lập Cao Đài gồm hai thành phần: Vô vi và Phổ độ.
Ngài truyền Vô Vi cho đức Ngô Minh Chiêu từ 1921.
Ngài truyền Phổ độ cho nhóm Phò loan từ 1925. Nhóm Phò loan gồm các ông Cao Quỳnh Cư (1887-1929), Cao Hoài Sang (1900-1971), Phạm Công Tắc (1890-1959), và sau này có thêm những ông Nguyễn Trung Hậu (1892-1961), Lê Văn Trung (1895-1934), Lý Trọng Quí, Lê Văn Giảng, Võ Văn Sang, Nguyễn Văn Hoài, Đoàn Văn Bản, Vương Quan Kỳ (1880-1940), v.v...
1. Đàn phố Hàng Dừa của nhóm Cao Quỳnh Cư, Phạm Công Tắc.
2. Đàn Cầu Kho của nhóm Đoàn Văn Bản, Nguyễn Trung Hậu, Trương Hữu Đức, Vương Quan Kỳ, Lê Văn Giảng, Nguyễn Văn Mùi, v.v…
3. Đàn Chợ Lớn do nhóm Lê Văn Trung, Cao Hoài Sang, Cao Quỳnh Diêu, Lê Bá Trang.
4. Đàn Lộc Giang tại chùa Phước Long của nhóm Trần Duy Nghĩa, Trương Văn Tràng, Mạc Văn Nghĩa.
5. Đàn Tân Định của nhóm Cao Quỳnh Cư, Phạm Công Tắc, Nguyễn Ngọc Thơ.
6. Đàn Thủ Đức của nhóm Ngô Văn Điều, Huỳnh Văn Mai, Võ Văn Nguyên.
7. Đàn Tân Kim của nhóm Nguyễn Văn Lai, Ca Minh Chương, Phạm Văn Tươi. Có các ông Lê Văn Lịch, Nguyễn Ngọc Tương, Phạm Văn Tiếp, v.v... hầu đàn.
Sau này còn thêm được những đại đệ tử như: Nguyễn Ngọc Tương (1881-1951), Lê Văn Lịch (1890-1959), Trần Đạo Quang (1870-1946).
Đạo Cao Đài chính thức ra đời [lập Tờ khai Đạo] ngày 07-10-1926, và có 28 vị ký tên.
Buổi khai đạo, Đức Cao Đài cũng đã đem được Ngũ chi về theo Cao Đài.
1. Chi Minh Đường của ông Lê Văn Lịch.
2. Chi Minh Sư của Trần Đạo Quang.
3. Chi Minh Tân của Lê Minh Khá.
4. Chi Minh Thiện (Hạnh Thông Tây, Gia Định), thường thiên về quốc sự. Chi này quy tụ nhiều trí thức buổi đầu như Trần Hiển Vinh, Nguyễn Phan Long, v.v...
5. Chi Minh Lý của Âu Kiết Lâm.
Do đó mà tôn chỉ đầu tiên của Cao Đài là Tam giáo quy nguyên, Ngũ chi phục nhứt.
Sau này các môn đệ Cao Đài chia làm nhiều chi phái như:
* Vô vi (1920) Chiếu Minh Đàn của Ngô Minh Chiêu.
* Phổ độ (1926) Lê Văn Trung và các ông Cư, Tắc, Sang, Hậu.
* Bến Tre (1938): Nguyễn Ngọc Tương.
* Tây Ninh (1938): Phạm Công Tắc.
* Cầu Kho (1930): Vương Quan Kỳ.
* Minh Chơn Lý (1931-1935): Nguyễn Văn Ca (Định Tường).
* Tiên Thiên (1932): Nguyễn Hữu Chỉnh (Cai Lậy).
* Minh Chơn Đạo (1935): Cao Triều Phát (Cà Mau).
Chi Nhánh, chi phái rồi ra cũng sẽ hợp nhất.
«Bửu toà thơ thới trổ thêm hoa,
Mấy nhánh rồi sau cũng một nhà.
Chung hiệp rán vun nền đạo đức,
Cái nhánh các con là nhánh chính mình Thầy làm chủ, sau các con sẽ hiểu...»
Vô vi là phần cao siêu nhất trong một đạo giáo. Người theo vô vi phải có tuệ căn, phải có trình độ tu luyện, phải nắm vững được cái cao siêu bí diệu của đạo giáo. Cao Đài chỉ có một mình Đức Ngô Minh Chiêu là theo được vô vi. Ngài không tham quyền cao, chức trọng, sẵn sàng từ bỏ chức Giáo tông (24-4-1926), và tách rời đám Phổ độ.
Người theo vô vi trông thấy Trời, thấy Bản thể vũ trụ, thấy Lương tâm trong lòng mình.
Phần vô vi trong Cao Đài chính là toát lược tâm pháp triết học, và Đại đạo chân truyền.
Thưa là thuyết Thiên địa vạn vật đồng nhất thể. Đại khái chủ trương:
1. Vũ trụ hữu hình này là phân thể của một toàn thể, đã được phóng phát, tán phân ra.
2. Như vậy, vạn hữu đồng căn nhưng dị dạng, nhất thể vạn thù.
3. Thượng đế tiềm ẩn trong giữa lòng quần sinh, vũ trụ.
4. Giác ngộ là biết rằng con người có Bản thể Thượng đế, có tính Trời.
5. Tìm Trời, tìm Đạo phải tìm trong lòng, phải đi vào nội tâm.
6. Lúc chung cuộc, vạn vật sẽ siêu thăng, trở về với Thượng đế. Thế là vạn vật tuần hoàn, chung nhi phục thủy.
7. Vũ trụ, lịch sử chuyển hoá hai chiều, vãng lai, thuận nghịch, thành một chu kỳ.
Đạo hữu Thiên Vương Tinh viết: «Thiên địa vạn vật nhất thể theo Cao Đài giáo là một Nguyên lý, là Chân lý, là Đạo chứ không phải chỉ là một quan niệm, một chủ trương hay một học thuyết.»
«Nguyên lý Thiên địa vạn vật nhất thể được minh xác qua thánh ngôn, thánh giáo.»
Cao Đài chủ trương Trời người đồng thể:
«Con là một thiêng liêng tại thế,
Cùng với Thầy đồng thể Linh quang.»
«Thật là diệu diệu huyền huyền,
Trời người có một, chẳng riêng khác gì.»
Người với Trời nào có khác chi.
Người người đều cũng đủ y như Trời.»
Chẳng những vậy, muôn loài cũng đồng bản thể như nhau:
«Đạo là nơi nhất nguyên chủ tể,
Đạo cũng là đồng thể vạn linh.»
Như vậy, con người và vạn vật đều đồng bản thể với Đạo, với Trời. Chính từ cơ sở Thiên địa vạn vật nhất thể mà phát sinh chủ trương ái nhân, ái vật. Tình huynh đệ đại đồng theo Cao Đài giáo, không phải chỉ là tình của người với người, mà chúng sinh, vạn hữu đều là huynh đệ anh em, trước sau trên bước đường tiến hoá.
«Đạo tuy định nghĩa khắp muôn phương,
Căn bản làm đầu một chữ Thương.
Thương chúng, thương mình, thương tất cả,
Thì đem chơn đạo sớm hoằng dương.»
Cao Đài hứa cho con người quy nguyên phản bản, Thiên nhân hiệp nhất, phục hồi nguyên thần.
Thoát ly vạn tướng, phục nguyên thần.»
Cao Đài chủ trương con người có ba phần: Thần; Khí (Hồn); Tinh (Xác).
Thần là Trời, là phần bất biến trong con người. Còn gọi là nhị xác thân hay Đạo tâm, hay Nguyên thần hay Chơn thân.
Nhị xác thân, hay Chơn thân là cái xác thân vững bền muôn kiếp, sống mãi bằng Trời, không tử, không sanh, không thêm, không bớt. Luyện đặng cái Chơn thân ấy, thì trường sinh, bất tử, khỏi phải chịu quả báo, luân hồi, đời đời, kiếp kiếp an hưởng vui chơi nơi bồng lai, tiên cảnh. Ấy là Chơn nhân vậy...
Khí tức là Hồn con người đầy thất tình, lục dục, biến hoá, vô thường, luân hồi, sinh tử.
Những người theo vô vi sau này tu theo kinh Đại thừa chân giáo của phái Chiếu Minh (Ngô Văn Chiêu), và kinh này rất được ngưỡng mộ. Từ 17-7-1997 tại hải ngoại lại có một đàn do đức Ngô Minh Chiêu giáng cơ, nhan đề là Thánh ngôn học đạo. Văn chương tề chỉnh, ý tứ cao siêu, mục đích:
«Dạy người trở lại Huyền Khung,
Lập đời thượng cổ, khắp trong hoàn cầu.» (Đàn ngày12-8-1997)
Gặp Thầy nơi đó, há mà tìm đâu.
Thì Thầy ứng hiện minh châu nơi lòng.» (Đàn ngày 14-8-1997).
«Phước thay sinh được làm người,
Là cơ hội học làm Trời, nghe con.» (Đàn ngày 19/8/97).
Nào ngờ Trời Phật nơi tâm của mình.
Thầy luôn luôn ở bên mình con nghe.» (Đàn ngày 19/8/97).
«Trải bao kiếp nhờ vào tiến hoá,
Nhận ra bí nhiệm lý chân đời người.
Nhận ra được Trời người đồng thể,
Trời với người chẳng phải hai ngôi.
Vận hành lưu chuyển, xiết ôi diệu kỳ.
Người với Trời vốn Đạo mà thôi.
Tự nhiên sẽ hiểu được Trời khó chi.»
Phổ độ là phần sáng lập một tôn giáo, cũng đủ mọi phần lễ nghi, hình thức, lề luật, giáo điều. Đó là phần chi tiết, cho những người sơ cơ, bước vào đường Đạo. Phổ độ chung quy sẽ phải nhường bước cho vô vi, vì vô vi mới là chủ đích chính yếu của Cao Đài.
Đỗ Vạn Lý, Tìm hiểu đạo Cao Đài, tr. 45.
Lê Anh Dũng, Lịch sử đạo Cao Đài, tr. 18-23.
Lê Anh Dũng, Lịch sử đạo Cao Đài, tr. 70-71.
Đồng Tân, Tìm hiểu đạo Cao Đài, tr. 39-40.
Đỗ Vạn Lý, Tìm hiểu đạo Cao Đài, tr. 31.
Thánh ngôn hiệp tuyển, tr. 7, đàn 20-02-1926.
Cao Đài giáo lý, Rằm tháng 2, năm Kỷ Mùi, tr. 42.
Thánh giáo sưu tập 1966-1967, tr. 36.
Thánh giáo sưu tập 1966-1967, tr. 35.
Thánh giáo sưu tập 1972-1973, tr. 157.
Thánh giáo sưu tập 1972-1973, tr. 78.
Đồng Tân, Tìm hiểu đạo Cao Đài, tr. 39. – Đại thừa chân giáo, tr. 356, Xuất thần.
Đàn ngày 11-9-1997, giải về Thiên nhân đồng thể, vạn pháp đồng căn...